Bài 6:
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
1. Khái niệm, đối tượng và phương pháp
điều chỉnh của Luật Hình sự
1.1. Khái niệm
Luật Hình sự là hệ thống các quy phạm pháp
luật xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm và quy định
hình phạt có thể áp dụng cho các tội phạm đó[1].
1.2. Đối tượng và phương
pháp điều chỉnh
a) Đối tượng điều chỉnh
Luật Hình sự chỉ
điều chỉnh các quan hệ xã hội khi có tội phạm xảy ra - đó cũng chính là các
quan hệ pháp luật hình sự.
Đối
tượng điều chỉnh của Luật Hình sự là những quan hệ xã hội phát sinh giữa nhà nước và người phạm tội hay pháp nhân thương mại phạm
tội khi thực hiện tội phạm.
Chủ thể của quan hệ pháp
luật hình sự là nhà nước, người phạm tội và pháp nhân thương mại phạm tội.
- Nhà nước: Nhà nước
buộc người phạm tội phải chịu hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm của tội phạm mà họ đã gây ra. Nhà nước cũng có trách nhiệm bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội.
- Người phạm tội là
người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Luật Hình sự coi là tội phạm
phải chấp hành các biện pháp cưỡng chế hình sự mà nhà nước áp dụng với họ.
- Pháp nhân thương mại
phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự coi là tội phạm
phải chịu trách nhiệm hình sự do nhà nước quy định.
b) Phương pháp điều chỉnh
Phương pháp điều
chỉnh của Luật Hình sự là phương pháp mệnh lệnh – phục tùng. Theo đó, các quy
phạm pháp luật hình sự đều có cách tác động chung là bắt buộc người phạm tội
cũng như pháp nhân thương mại trong trường hợp nhất định phải thực hiện nghĩa
vụ pháp lý là trách nhiệm hình sự.
2. Một số nội dung cơ bản của Bộ luật Hình sự
2.1. Tội phạm
2.1.1. Khái niệm tội phạm và các yếu tố cấu thành tội phạm
a) Khái niệm
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc
pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ
kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa
mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự (Điều 8, Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Từ khái niệm trên có thể khái quát: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, có lỗi, trái pháp luật hình sự
và phải chịu hình phạt.
b) Các yếu tố cấu thành tội phạm
Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu
chung có tính đặc trưng cho một loại tội cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình
sự.
Những dấu hiệu
bắt buộc phải có trong tất cả các cấu thành tội phạm là: Dấu hiệu hành vi thuộc
yếu tố mặt khách quan của tội phạm; Dấu hiệu lỗi thuộc yếu tố mặt chủ quan của
tội phạm; Dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự (trong đó có dấu hiệu độ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự) thuộc yếu tố chủ thể của tội phạm. Ngoài những dấu
hiệu kể trên, những dấu hiệu khác của bốn yếu tố cấu thành tội phạm đều là
những dấu hiệu không bắt buộc phải có trong mọi cấu thành tội phạm như dấu hiệu
hậu quả, dấu hiệu mục đích phạm tội, dấu hiệu động cơ phạm tội[2]...
Theo khoa học luật hình sự, để bị coi là
tội phạm thì cần phải xem xét đầy đủ 04 yếu tố (khách thể của tội phạm, mặt
khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm), nếu
thiếu một trong bốn yếu tố dưới đây thì không thể quy kết một người phạm tội.
-
Khách thể của tội phạm là
quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại bằng cách
gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội đó.
Tội phạm xảy ra có thể xâm hại tới một hoặc nhiều quan hệ
xã hội.
+ Nếu tội phạm
đó chỉ xâm hại tới một quan hệ xã hội thì đó chính là khách thể trực tiếp của
tội phạm.
+ Nếu tội phạm
đó xâm hại tới nhiều quan hệ xã hội thì:
Tội phạm chỉ có
một khách thể trực tiếp nếu một trong số các quan hệ xã hội bị xâm hại đã thể hiện
đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.
Tội phạm có
nhiều khách thể trực tiếp nếu bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm chỉ
thể hiện đầy đủ trong tổng thể các quan hệ xã hội bị xâm hại.
-
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm bao gồm hành vi, hậu quả,
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện, phương
pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm, và hoàn cảnh phạm tội.
-
Chủ thể của tội phạm là
người thực hiện hành vi phạm tội, có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt
một độ tuổi luật định.
-
Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến tâm lý bên trong của người phạm tội bao gồm lỗi, động
cơ và mục đích phạm tội.
2.1.2. Những dấu hiệu cơ bản của tội phạm
Theo Luật Hình sự Việt Nam,
hành vi bị coi là tội phạm được phân biệt với các hành vi không phải là tội
phạm qua các dấu hiệu sau:
- Tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản quan trọng nhất quyết định
những dấu hiệu khác của tội phạm. Do có tính nguy hiểm cho xã hội nên hành vi
được quy định trong Luật Hình sự là tội phạm và phải chịu hình phạt. Nguy hiểm
cho xã hội bao gồm tính gây thiệt hại về khách quan và tính có lỗi về chủ quan[3].
- Tính có lỗi của tội phạm: Lỗi là thái độ chủ quan của con người đối với
hành vi (có tính chất gây thiệt hại cho xã hội) của mình và đối với hậu quả của
hành vi đó thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý[4].
Người bị coi là có lỗi khi người đó thực hiện
hành vi gây thiệt hại cho xã hội nếu đó là kết quả của sự lựa chọn và quyết
định của chủ thể trong khi có đủ điều kiện quyết định một xử sự khác phù hợp
với đòi hỏi của xã hội. Bộ luật Hình sự không cho phép việc truy cứu trách
nhiệm hình sự chỉ căn cứ vào hành vi nguy hiểm mà bỏ qua dấu hiệu lỗi.
- Tính trái pháp luật hình sự: Theo Điều
8 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ được coi là
tội phạm nếu được quy định trong Bộ luật Hình sự.
- Tính phải chịu hình phạt: Bất cứ một hành vi phạm tội nào cũng đều bị đe
dọa phải chịu một hình phạt. Chỉ có hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt,
tội càng nghiêm trọng thì hình phạt áp dụng càng nghiêm khắc.
2.1.3. Phân loại tội phạm
Căn cứ vào vào tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong Điều 9, Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, tội phạm được phân thành:
- Tội phạm ít
nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn
mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là
phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
- Tội phạm
nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức
cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên
03 năm tù đến 07 năm tù;
- Tội phạm rất
nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà
mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ
trên 07 năm tù đến 15 năm tù;
- Tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc
biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với
tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
2.2. Hình phạt
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc
nhất của nhà nước được quy định trong Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người
hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của
người, pháp nhân thương mại phạm tội đó (Điều 30, Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng
trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo
pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; Hình phạt
còn nhằm giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng
ngừa và đấu tranh chống tội phạm (Điều 31, Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Hệ thống hình phạt là tổng thể các hình phạt
do nhà nước quy định trong Bộ luật Hình sự và được sắp xếp theo một trình tự
nhất định tùy thuộc vào mức độ nghiêm khắc của mỗi hình phạt.
Bộ luật Hình sự 2015,
sửa đổi, bổ sung năm 2017, phân
chia hệ thống hình phạt thành hai nhóm: Các hình phạt đối với người phạm tội
(Điều 32) và các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội (Điều 33).
Hình phạt chính là hình phạt cơ bản được áp dụng cho một tội
phạm và được tuyên độc lập. Với mỗi tội phạm, tòa án chỉ có thể áp dụng một
hình phạt chính.
Theo Điều 32, Bộ luật Hình sự 2015,
sửa đổi, bổ sung năm 2017, hình
phạt chính đối với người phạm tội bao gồm:
- Cảnh cáo;
- Phạt tiền;
- Cải tạo không giam giữ;
- Trục xuất;
- Tù có thời hạn;
-
Tù chung thân;
-
Tử hình.
Theo
Điều 33, Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017, hình phạt chính đối với pháp nhân
thương mại phạm tội bao gồm:
- Phạt tiền;
- Đình chỉ hoạt động có thời hạn;
- Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.
2.2.2. Hình phạt bổ sung
Là hình phạt không được tuyên độc lập mà chỉ có
thể tuyên kèm theo hình phạt chính. Đối với mỗi tội phạm, tòa án có thể tuyên
một hoặc nhiều hình phạt bổ sung nếu điều luật về tội phạm có quy định các hình
phạt này.
Theo Điều 32, Bộ luật Hình sự 2015,
sửa đổi, bổ sung năm 2017, hình
phạt bổ sung đối với người phạm tội gồm có:
- Cấm đảm nhiệm những
chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định;
- Cấm cư trú;
- Quản chế;
- Tước một số quyền công dân;
- Tịch thu tài sản;
- Phạt tiền và trục xuất (khi không áp dụng
hình phạt chính).
Theo Điều 33, Bộ luật Hình sự 2015,
sửa đổi, bổ sung năm 2017, hình
phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại phạm tội gồm có:
- Cấm kinh
doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định;
- Cấm huy động
vốn;
- Phạt tiền, khi
không áp dụng là hình phạt chính.
CÂU HỎI
1. Tội phạm là gì? Các dấu hiệu cơ bản của tội phạm?
2. Thế nào là cấu thành tội phạm? Trình bày các yếu tố
của cấu thành tội phạm.
3. Khái niệm hình phạt? Phân loại hình phạt.
إرسال تعليق