I. KHÁI NIỆM CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
1. Khái niệm và nguồn gốc hình thành
- Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết do C.Mác, Ph.Ăngghen sáng lập từ giữa thế kỷ XIX, được V.I.Lênin bổ sung, phát triển đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ thống lý luận thống nhất được cấu thành từ ba bộ phận lý luận cơ bản là triết học Mác-Lênin, kinh tế chính trị học Mác-Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học. Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ thống lý luận khoa học thống nhất về mục tiêu, con đường, biện pháp, lực lượng thực hiện sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng xã hội, giải phóng con người, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Từng bộ phận cấu thành của Mác-Lênin có vị trí, vai trò khác nhau nhưng cả học thuyết là một thể thống nhất, nêu rõ mục tiêu, con đường, lực lượng, phương thức giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
- Chủ nghĩa Mác-Lênin hình thành từ các nguồn gốc:
Về kinh tế-xã hội: Nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa giữa thế kỷ XIX phát triển mạnh ở nhiều nước Tây Âu. Sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân với tính cách là lực lượng chính trị độc lập là nhân tố quan trọng ra đời chủ nghĩa Mác. Biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá sản xuất đại công nghiệp với chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân đã trở nên rất gay gắt.Hàng loạt cuộc đấu tranh tự phát, quy mô lớn của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản đã nổ ra, như đấu tranh của công nhân dệt thành phố Li-ông, Pháp (1831- 1834), phong trào Hiến chương của công nhân Anh (1838-1848), đấu tranh của công nhân dệt thành phố Xi-lê-di, Đức (1844), v.v… nhưng đều thất bại. Yêu cầu khách quan cần có học thuyết khoa học và cách mạng dẫn đường để đưa phong trào đấu tranh của giai cấp công nhânđi đến thắng lợi.
Về tư tưởng lý luận là những đỉnh cao về triết học cổ điển Đức mà tiêu biểu là Can-tơ, Hê-ghen, Phoi-ơ-bắc; kinh tế chính trị học cổ điển ở Anh mà tiêu biểu là A-đam Xmít, Đa-vit Ri-các-đô; các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phánở Pháp và ở Anh mà tiêu biểu là Xanh Xi-mông, Phu-riê; Ô-oen...
Về khoa học là những phát minh về khoa học tự nhiênnhư thuyết tiến hóa giống loài của Đác-uyn (1859), thuyết bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Lô-mô-nô-xốp(1845); học thuyết về tế bào của các nhà khoa học Đức (1882). Các học thuyết này là cơ sở củng cố chủ nghĩa duy vật biện chứng- cơ sở phương pháp luận của học thuyết Mác.
- Vai trò nhân tố chủ quan
C.Mác (1818-1883), Ph.Ăngghen (1820-1895) đều người Đức, là những thiên tài trên nhiều lĩnh vực tự nhiên, chính trị, văn hoá-xã hội... Trong bối cảnh nền đại công nghiệp giữa thế kỷ XIX đã phát triển, hai ông đã đi sâu nghiên cứu xã hội tư bản chủ nghĩa; kế thừa, tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tiền đề tư tưởng lý luận, khoa học, phát hiện ra sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân trong tiến trình cách mạng cách mạng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
2. Các giai đoạn phát triển
- Giai đoạn C.Mác, Ph.Ăngghen (1848-1895)
Các Mác và Ph.Ăngghen bắt đầu gặp nhau từ năm 1844, sớm thống nhất về tư tưởng chính trị, cùng nhau nghiên cứu, phát hiện ra sức mạnh to lớn của giai cấp công nhân và từ đó chuyển biến sang lập trường dân chủ cách mạng.
Tháng 2-1848, tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản do hai ông dự thảo được Đồng minh những người cộng sản thông qua và công bố ở Luân Đôn, mở đầu sự ra đời chủ nghĩa Mác. Sau đó hai ông đã viết nhiều tác phẩm, điển hình là bộ sách Tư bản, xây dựng nên học thuyết khoa học với ba bộ phận lớn gồm triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Các Mác và Ph.Ăngghen sáng lập và là lãnh tụ của Quốc tế I (1863-1876), đặt nền tảng cho sự ra đời phong trào công nhân quốc tế. Sau khi C.Mác qua đời (1883), vàonăm 1889 Ph.Ăngghen thành lập Quốc tế II với sự tham gia của nhiều chính đảng của giai cấp công nhân, mở ra thời kỳ phát triển theo bề rộng của phong trào công nhân quốc tế.
Sự ra đời chủ nghĩa Mác đáp ứng yêu cầu khách quan, cấp bách của phong trào công nhân; là kết quả tất yếu của sự kế thừa, phát triển của trí tuệ nhân loại, đã đưa phong trào công nhân từ tự phát thành tự giác và phát triển ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa.
- V.I.Lênin phát triển chủ nghĩa Mác (1895-1924)
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin (1870-1924, người Nga), đã đấu tranh kiên quyết,bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Người đã phân tích những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản trong điều kiện mới và khẳng định chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. Cách mạng vô sản có thể nổ ra và thắng lợi ở một vài nước, thậm chí ở một nước kinh tế chưa phát triển cao. Cách mạng vô sản muốn thắng lợi, tất yếu phải xây dựng một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Đảng đó phải được tổ chức chặt chẽ và đi theo lý luận của chủ nghĩa Mác. Cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc có mối quan hệ khăng khít với nhau...
V.I.Lênin đã lãnh đạo thắng lợi Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga (1917-1921) và sau đó là Liên Xô (1922-1924). Người đã phát triển nhiều vấn đề lý luận mới về xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là chính sách kinh tế mới, công nghiệp hóa, điện khí hoá toàn quốc, xây dựng quan hệ sản xuất mới, lý luận về Đảng Cộng sản và Nhà nước kiểu mới, về thực hành dân chủ, phát triển văn hóa, khoa học-kỹ thuật, về đoàn kết dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...v.v.
Sau khi V.I.Lênin mất, Quốc tế Cộng sản đã bổ sung, gọi chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa Mác-Lênin và khẳng định đây là hệ thống lý luận thống nhất, vũ khí lý luận của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đấu tranh giành chính quyền và tiến hành xây dựng xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa Mác-Lênin từ năm 1924 đến nay
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết mở, không ngừng bổ sung và phát triển cùng với sự phát triển của tri thức nhân loại, là nền tảng tư tưởng của các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới, không ngừng được bổ sung, phát triển trong tiến trình cách mạng của giai cấp công nhân và các dân tộc trên thế giới .
إرسال تعليق