Bài 2KHÁI QUÁT VỀ TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
I. KHÁI NIỆM, NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH
THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Khái niệm
-
Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh lần đầu tiên được sử dụng trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) và ngày càng được xác định hoàn thiện
và sâu sắc hơn rõ hơn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011)
viết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào
điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần
vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”[1].
Định nghĩa trên đã làm rõ ba vấn đề lớn:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan
điểm lý luận toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ
Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài
sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi
đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
2. Nguồn gốc
- Tình hình Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Năm 1884, với
Hiệp ước Pa-tơ-nốt giữa Chính phủ Pháp và Vương triều Nguyễn, thực dân Pháp đã
thiết lập được sự thống trị trên toàn cõi Việt Nam. Từ đây xã hội Việt Nam trở
thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Nhân dân Việt Nam bị đàn áp, bóc lột,
cuộc sống vô cùng khổ cực.
Ngay
từ đầu khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân Việt Nam đã đứng lên chống thực dân Pháp. Cho đến đầu
thế kỷ XX, các cuộc khởi nghĩa vũ trang, các phong tràochống Pháp đã liên tục
nổ ra từ Nam chí Bắc, hết sức quyết liệt nhưng tất cả đều bị thực dân Pháp đàn
áp đẫm máu và thất bại.
Mặc dù bị thất bại nhưng sự phát triển mạnh mẽ của các
phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã khẳng định ý chí
kiên cường, bất khuất vì độc lập, tự do của dân tộc. Tuy nhiên, nó cũng chứng
tỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng dân chủ tư sản
đã không dẫn đến thành công. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng,
bế tắc về đường lối, về giai cấp lãnh đạo “Ví
như trong đêm tối không có đường ra”.
Tình
hình thế giới khi đó nổi bật là sự xuất hiện chủ nghĩa Lênin. V.I.Lênin đã bảo
vệ và phát triển chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác- Lênin. Trong bối cảnh mâu thuẫn giữa các đế quốc dẫn
đến chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), V.I.Lênin đã lãnh đạo thắng lợi
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, và thành lập Quốc tế Cộng sản (3-1919),
trung tâm lãnh đạo phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, thúc đẩy sự truyền
bá rộng rãi chủ nghĩa Mác-Lênin, ra đời hàng chục đảng cộng sản ở nhiều nước
Châu Âu, châu Mỹ[2];
yêu cầu giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa đặt ra cấp
thiết.
b)
Nguồn gốc tư tưởng, lý luận
- Những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, quê hương và gia đình
Nguyễn Sinh Cung (tên của Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh còn
lúc nhỏ) sinh ngày 19-5-1890, trong một gia đình nhà nho nghèo,
yêu nước tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Người sớm kế thừa được những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, quê hương và gia đình.
Đó là truyền thống yêu nước, ý chí quyết tâm, tinh thần độc lập, tự chủ, lao
động cần cù, sáng tạo, tinh thần hiếu học, sống nhân ái, đoàn kết, khoan
dung... Quá trình học văn hóa tại trường tiểu học Đông Ba, Quốc Học Huế cùng
với sự tự học, từng trải thực tiễn, Người sớm cảm nhận được sự khổ nhục của
người dân mất nước, mất độc lập, bị thống trị bởi thực dân Pháp. Những năm tuổi
trẻ, đầu đời (1890-1911), bằng học tập và chiêm nghiệm, Người đã sớm hình thành
nên nhân cách và bản lĩnh của mình. Đó là tiền đề tư tưởng đầu tiên hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Tinh
hóa văn hóa phương Đông và phương Tây
Từ
lúc thiếu thời, Nguyễn Tất Thành đã được cha dạy chữ Hán và tiếp thu được nền
giáo dục của Nho giáo,tiếp thu được các giá trị tích cực
của Nho giáo. Người cũng
đã tiếp thu được các giá trị tích cực của Nho giáo, Phật giáo,
Lão giáo; những giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống của dân tộc.
Những năm hoạt
động cách mạng ở nước ngoài, Người đã tiếp thu được những tư tưởng nhân quyền,
dân quyền của cách mạng Mỹ (1776), tư tưởng Tự do, Bình đẳng,
Bác ái của cuộc Đại cách mạng Pháp (1789), tiếp thu tư tưởng đạo đức của Thiên
chúa giáo,chủ nghĩa Tam dân của Trung quốc… Đó là những tư tưởng về
quyền con người, quyền dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái, về quyền sống, tự do
và mưu cầu hạnh phúc của các dân tộc và của con người. Tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây là
tiền đề tư tưởng quan trọng hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh.
- Chủ
nghĩa Mác-Lênin là
nguồn gốc tư tưởng, lý luận chủ yếu
Từ
một người yêu nước, Nguyễn Ái Quốc tiếp thu và tin theo chủ
nghĩa Mác-Lênin,trở thành người cộng sản (1920). Đi
theo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có bước
chuyển về chất, có giá trị vượt trội hơn tất cả các trào
lưu tư tưởng yêu nước đương thời. Từ
đây, tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc phạm trù chủ nghĩa Mác- Lênin. Bước
chuyển lịch sử theo chủ nghĩa Mác-Lênin của Người đã phù
hợp với xu thế của thời đại và mở ra con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Bước
ngoặt tư tưởng tiến bộ đó phù hợp với xu thế của thời đại mới
nên có sức lôi cuốn nhiều
người Việt Nam yêu nước tin tưởng, đi theo.
Từ
tin tưởng, đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin, Người kiên trì trong 10 năm chuẩn bị để
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; lãnh đạo Đảng và nhân dân tiến hành thắng lợi
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), tiến hành thắng lợi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
và tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước thắng lợi, thống nhất đất nước. Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và cách mạng Việt
Nam.
c)
Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh
Phẩm
chất cá nhân Hồ Chí Minh với những đặc điểm nổi trội:
- Hồ Chí Minh là người có những nhận xét, phân tích tinh
tường, sáng suốt trong nghiên cứu lý luận và thực tiễn. Sự tin tưởng, trung
thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin vào thực tiễn Việt Nam đã khẳng định phẩm
chất tư duy độc lập, tự chủ sáng tạo của Người.
- Sự
khổ công, ý chí quyết tâm học tập của Người là tấm gương sáng về sự bền bỉ,
không ngừng tích lũy tri thức phong phú của nhân loại, học tập kinh nghiệm đấu
tranh giải phóng dân tộc để vận dụng vào cuộc sống và làm cách mạng.
- Ý
chí cách mạng kiên cường, lòng trung thành với lý tưởng của Đảng, quyền lợi của
dân tộc của Hồ Chí Minh đã đưa Người trở thành cộng sản chân chính, tinh thần
yêu nước nhiệt thành, thương yêu nhân dân, thương yêu những người cùng khổ, sẵn
sàng chịu đựng hy sinh vì độc lập của Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng
bào.
- Hồ
Chí Minh là tấm gương trong sáng, mẫu mực về đạo đức cách mạng: cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư. Tấm gương mẫu mực về phong cách tư duy, phong cách
làm việc, phong cách lãnh đạo, phong cách nói đi đôi với làm, phong cách diễn
đạt, phong cách ứng xử,...phong cách sinh hoạt đời thường; với đời tư trong
sáng, cuộc sống riêng giản dị, khiêm nhường.
- Cùng
với những năng lực trí tuệ vựợt trội, những phẩm chất cá nhân cao quý nêu trên
là tiền đề, là nguồn gốc, là điều kiện để Hồ Chí Minh tiếp nhận, chọn lọc,
chuyển hoá, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, các tư tưởng tiến bộ trên thế giới,
hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Quá trình hình thành
a) Thời kỳ niên thiếu đến khi ra nước
ngoài (1890-1911)
Năm
1895, Người theo cha vào Huế, học tại trường tiểu học Đông Ba, trường Quốc học
Huế với tên gọi là Nguyễn Tất Thành. Cuối năm 1910, Người từ biệt cha tại Bình
Địnhvào phía Nam, dạy học ở trường Dục Thanh, Phan Thiết, sau đó vào Sài Gòn.
Trong thời kỳ này,
Nguyễn Tất Thành đã là thanh niên có học thức, tiếp thu những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, quê hương và gia đình. Người sớm được học chữ Hán, chữ quốc
ngữ, chữ Pháp, tiếp xúc với văn hóa phương Đông và sách báo tiến bộ Pháp. Người
đã tận mắt thấy và hiểu rõ nỗi khổ nhục của người dân mất nước, chứng kiến sự
thất bại của các cuộc khởi nghĩa chống Phápvà trăn trở, suy nghĩ,, nung nấu một
quyết tâm ra nước ngoài, tìm kiếm con
đường cứu nước, cứu dân.
b) Thời kỳ trải nghiệm cuộc sống và
đến với chủ nghĩa Mác-Lênin (1911-1920)
Ngày 5 tháng 6 năm 1911,
từ bến Nhà Rồng, với tên là Văn Ba, phụ bếp trên một tàu buôn của Pháp, Hồ Chí
Minh bắt đầu ra nước ngoài.Người
đã qua nhiều nước, đến sống ở Mỹ (1912-1913), sống ở Anh (1914-1917) và về sống
ở Pháp (1917-1923). Từ thực tiễn lao động, Người nhận thấy, dù màu da, tiếng
nói khác nhau nhưng trên thế giới này chỉ có hai loại người, bóc lột và bị bóc
lột. Trong tư tưởng của Người đã hình thành tình cảm thương yêu những người lao
động nghèo khổ ở các nước.
Vào cuối năm 1917, Người trở lại
nước Pháp, hoạt động trong những người Việt Nam yêu nước ở Paris, nước Pháp.
Biết tin về Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công, Người đã tiếp xúc với
nhiều nhà cách mạng các nước ở Pháp và quan tâm tìm hiểu về cuộc cách mạng này.
Tại Paris, tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin, đăng trên báo L,Humanit,e,
số ra ngày 16 và 17-7-1920 của Đảng Xã hội Pháp. Người lập tức bị thu hút bởi
những tư tưởng trong luận cương về cách thức tiến hành cách mạng của các nước
thuộc địa và phụ thuộc chống đế quốc, phong kiến “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin
tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà
tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đầy
đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng cho
chúng ta! Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo quốc tế thứ 3”1. Như vậy, từ một người yêu nước chân chính, Nguyễn Ái Quốc đã gặp chủ
nghĩa Mác-Lênin và tìm thấy ở học thuyết này con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc. Con đường đó phù hợp một cách tự nhiên với nguyện vọng ấp ủ của Người.
Người kết luận: “Muốn cứu nước, giải
phóng dân tộc, không có con đường nào khác, ngoài con đường cách mạng vô sản”2. Từ đó, Người hoàn toàn tin theo V.I.Lênin, tán thành theo Quốc
tế Cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng
sản Pháp (12-1920) và trở thành người cộng
sản Việt Nam đầu tiên.
c) Thời kỳ hình thành tư tưởng cứu nước, giải
phóng dân tộc (1921-1930)
Sau những năm hoạt động ở Pháp, năm 1923, Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô, dự các hội nghị do
Quốc tế Cộng sản tổ chức; dự các khoá bồi dưỡng lý luận và nghiên cứu xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Cuối năm 1924, Người về Quảng Châu, Trung Quốc.
Những năm 1925-1927, Người thành lập Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên và và trực tiếp huấn luyện cán bộ của Hội; xuất bản tác phẩm Đường Cách mệnh (1927). Đây là thời kỳ hoạt động sôi nổi, hiệu quả của Nguyễn Ái Quốc
trên cả phương diện lý luận và thực tiễn; chuẩn bị chu đáo về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, cán bộ cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các Văn kiện do Người soạn thảo được Hội nghị thành lập
Đảng (2-1930) thông qua, trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Đó
là những vấn đề về mục tiêu chiến lược, nhiệm vụ và đối tượng của cách mạng;
lực lượng và lãnh đạo cách mạng; phương pháp cách mạng; quan hệ giữa cách mạng
Việt Nam và cách mạng thế giới. Có thể nói, đến các Văn kiện này, tư tưởng Hồ
Chí Minh về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt nam đã cơ bản hình
thành.
d) Thời kỳ vượt qua thử
thách, giữ vững đường lối, phương pháp cách mạng Việt Nam (1930-1941)
Đây là giai đoạn Nguyễn Ái Quốc gặp nhiều khó khăn. Người bị bắt và cầm tù trong nhà tùcủa thực dân Anh ở Hồng Kông (1931-1932). Sau khi thoát khỏi nhà tù của thực
dân Anh, năm 1934, Người trở lại Liên Xô, vào
học ở trường Quốc tế Lênin, nghiên cứu sinh tại Viện nghiên cứu các vấn đề dân
tộc và thuộc địa của Quốc tế Cộng sản. Dù gặp một số khó khăn, bị hiểu lầm về
một số hoạt động thực tế và quan điểm cách mạng, nhưng Người vẫn kiên định lập trường, giữ vững quan điểm,
đường lối cách mạng của Đảng về con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc theo cách mạng vô sản.
Tháng 10-1938, Hồ Chí Minh rời Liên Xô, qua Trung Quốc để
trở về Việt Nam. Ngày 28-1-1941, sau 30 năm xa Tổ quốc, tìm đường cứu nước,
Người trở về Pắc Bó, Cao Bằng. Tại đây, Hồ
Chí Minh đã chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ Tám (5-1941), quyết định
đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu và lãnh đạo chuẩn bị về mọi mặt để đấu tranh
giành chính quyền.
e) Thời kỳ phát triển hoàn thiện tư tưởng về những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam (1941-1969)
Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách
mạng của Đảng cơ bản là thống nhất. Hồ Chí Minh đã sáng lập Mặt trận Việt Minh
(5-1941), Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân
dân Việt Nam (12-1944); chủ trì Hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng và Đại hội
Quốc dân Tân Trào tại Tuyên Quang, phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
Tháng Tám 1945. Thời kỳ 1945-1946, với cương vị là Chủ tịch nước, Người đã cùng
toàn Đảng, toàn dân lãnh đạo đưa đất vượt ra khỏi tình trạng khó khăn ví như “ngàn
cân treo sợi tóc”. Từ năm 1946 đến năm 1954, Người là linh hồn của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược đi đến thắng lợi. Từ năm 1954 đến năm 1969,
Hồ Chí Minh bổ sung phát triển hoàn
thiện tư tưởng đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược, vừa xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiếp tục cách mang dân tộc, dân chủ ở miền Nam.
Thực tiễn 39 năm là lãnh tụ của Đảng,
24 năm là chủ tịch Đảng, chủ tịch nước, tư tưởng Hồ Chí Minh đã phát triển theo cả chiều rộng và
chiều sâu, trực tiếp giải quyết các vấn đề quan trọng của cách mạng Việt Nam.
Trước khi qua đời, Hồ Chí Minh để lại
cho toàn Đảng, toàn dân ta bản Di chúc
lịch sử, khẳng định sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hoạch
định cả một chương trình lớn xây dựng và phát triển đất nước sau chiến tranh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh có quá trình phát triển liên tục và ngày càng hoàn
thiện, (1890-1969), là kết
quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin của Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của nước ta, trở thành nền tảng tư tưởng của Đảng,
tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam; mãi mãi soi đường cho cách mạng Việt Nam phát triển đi lên.
II. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đại hội đại biểu lần thứ
IX của Đảng (4-2001) khẳng định:“Tư tưởng Hồ Chí Minh là
một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng
về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm
chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc
phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh
tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo
bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh,
cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân”[3].
Phù hợp với đối tượng học tập, trong giáo
trình này chỉ khái quát ngắn gọn một số nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh.
1. Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Trước ách xâm lược đô hộ của thực
dân Pháp, Hồ Chí Minh khẳng định, “Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác ngoài con đường
cách mạng vô sản”. Năm 1930, Người đã xác định mục tiêu của Đảng là đánh đổ
đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc
lập.Trong Tuyên ngôn Độc lập của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người khẳng định độc lập dân tộc là quyền thiêng
liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc: “Tất
cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể
xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền được tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc... Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân
tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền
sung sướng và quyền tự do... Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”[4].
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và
độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền
tự do, độc lập ấy”[5];
“Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[6].
Hồ Chí Minh khẳng định quyết tâm lớn: Dù khó khăn, gian khổ, nhân dân Việt
Nam nhất định đấu tranh giành độc lập và thống nhất Tổ quốc. Người đã khái quát
chân lý của các dân tộc “Không có gì quý
hơn độc lập, tự do!”.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập gắn bó chặt chẽ với tự
do và hạnh phúc của mọi người; chỉ có giải phóng giai
cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc. Nếu nước độc lập mà dân không hưởng
hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Dân chỉ biết rõ giá trị
của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Cần phải làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở và được
học hành. Theo Người, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết, là tiền
đề đi tới chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc phải gắn liền với bình đẳng dân
tộc, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, hoà bình, tự do, cơm no, áo ấm, dân được
học hành.
Quan niệm của Người về chủ nghĩa xã hội rất phong phú. Chủ nghĩa xã hội là
một chế độ hoàn chỉnh, nhân dân lao động thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, mọi
người đều có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc; có đời
sống vật chất và văn hoá, tinh thần cao; có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân
dân các nước.
Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu hướng tới, cơ sở đảm
bảo vững chắc độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là
nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh và xuyên suốt đường lối cách mạng
Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là một chế độ: Do nhân dân làm chủ.
Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát
triển cao về văn hoá, đạo đức; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột,
có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển
hết mọi khả năng sẵn có của mình. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và
hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng;
các dân tộc đều bình đẳng, miền núi được giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi. Chủ
nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội là cuộc chiến đấu khổng lồ
chống lại những gì cũ kỹ, hư hỏng. Để giành thắng lợi, tạo lập những cái mới mẻ
tốt tươi cần phải động viên toàn dân, tổ chức giáo dục toàn dân, dựa vào lực
lượng vĩ đại của nhân dân. Muốn giải phóng dân tộc phải đấu tranh chống ngoại
xâm, giành độc lập dân tộc. Muốn giải phóng giai cấp phải đấu tranh xóa bỏ
nghèo nàn, lạc hậu. Muốn giải phóng con người phải đấu tranh xóa bỏ chủ nghĩa
cá nhân.
Hồ Chí Minh chỉ ra những đặc điểm bao trùm nhất của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu
tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”[7]. “Ta xây dựng chủ nghĩa xã hội từ hai bàn tay trắng đi lên thì khó
khăn còn nhiều và lâu dài”[8]. Đó là quá trình khó
khăn, lâu dài, không thể một sớm một chiều, phải đấu tranh rất gay go, quyết
liệt, lâu dài, phải tiến dần từng bước vững chắc.
Qua thực tiễn hoạt động, Hồ Chí Minh khẳng định
cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Chúng ta cần kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại là để tạo ra sức mạnh tổng hợp chiến thắng mọi kẻ thù lớn mạnh. Theo Người,
nước ta là một nước nhỏ, phải phát huy mọi yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa
con người, sức mạnh của chính nghĩa của toàn dân tộc, vừa phải đoàn kết các
đảng anh em, các nước anh em với tinh thần “Bốn phương vô sản đều là anh em”, “Giúp bạn là tự giúp mình”; “Việt
Nam muốn làm bạn với tất cả các nước dân chủ, không muốn gây thù oán với ai”...
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội thể hiện tập trung nhất trong điều mong muốn
cuối cùng trong Di chúc của Người
là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp cách mạng thế giới.
2. Tư tưởng về quyền làm
chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân
Theo Hồ Chí Minh “Trong
bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực
lượng đại đoàn kết của nhân dân”[9].
Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại. Người
nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ,
nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ”[10], “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân
là người chủ”[11], “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là
dân, vì dân là chủ”[12]. Dân là chủ, nghĩa là mọi
quyền hành đều ở nơi dân, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Đảng, Chính phủ, cán
bộ, đảng viên là đày tớ và làm đày tớ cho dân. Dân chủ cần được thể hiện trên
tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Theo Người, có dân thì có tất cả: “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”. “Nếu
lãnh đạo khéo thì việc gì khó khăn mấy và to lớn mấy, nhân dân cũng làm được”[13].
Bởi vậy phải không ngừng học dân. Nhân dân ta rất cần cù, thông minh và khéo
léo; cán bộ
cần hiểu rằng mình là công bộc, là đầy tớ của dân; phải chăm lo, không ngừng
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.. Nhà nước của dân là tất cả mọi quyền lực trong nhà
nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Nhà nước do dân là nhà nước do dân tạo ra và nhân dân tham
gia quản lý. Nhà nước vì dân là nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân
làm mục tiêu; ngoài ra, không có bất cứ một lợi ích nào khác.
Trong quan hệ giữa dân và Đảng, Hồ Chí Minh quan niệm: dân là chủ và dân
làm chủ thì Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên
là đầy tớ và làm đầy tớ cho dân. Dân chủ cần được thể hiện trên tất cả
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó, dân chủ trên lĩnh
vực chính trị là quan trọng nhất, được biểu hiện tập trung trong hoạt động của
Nhà nước. Người yêu cầu dân chủ phải thể hiện ở việc bảo đảm quyền con người,
quyền công dân; từ Chủ tịch nước đến công chức bình thường đều phải làm công
bộc, làm đày tớ cho nhân dân, phải phục vụ nhân dân.
Theo Người, Nhà nước của dân là tất cả mọi quyền lực
trong Nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Nhân dân lao động làm chủ
Nhà nước tất dẫn đến một hệ quả là nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước. Cử tri
bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những vấn
đề quốc kế dân sinh.
Nhà nước do dânlà Nhà nước do dân tạo ra và nhân dân
tham gia quản lý. Hồ Chí Minh khẳng định: Việc nước là việc chung, mỗi người
đều phải có trách nhiệm “ghé vai gánh vác một phần”.
Nhà nước vì dân là Nhà nước lấy
lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu. Tất cả hoạt động của Nhà nước đều
vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra, không có lợi ích nào khác. Một nhà nước vì
dân là từ Chủ tịch nước đến công chức bình thường là do dân ủy thác và phải tận
tâm, tận lực phục vụ nhân dân, là công bộc, đày tớ của nhân dân..
Theo Hồ
Chí Minh cần xây dựng bộ máy nhà nước
tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, hoạt động có hiệu quả. Trong đó, Quốc hội là cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất, đại diện cho quyền lợi của toàn dân, cả nước;
Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất, mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân; xây
dựng bộ máy tư pháp có tính độc lập tương đối, hoạt động chỉ tuân thủ luật
pháp. Nhà nước dân chủ Việt Nam không thể thiếu pháp luật, vì nó là “bà đỡ” cho
nền dân chủ mới. Dân chủ đích thực bao giờ cũng đi liền với kỷ cương phép nước.
Mọi quyền dân chủ của người dân phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp và pháp
luật; ngược lại, hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho quyền tự do, dân chủ của
người dân được tôn trọng trong thực tế.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến
xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm được việc
thực thi quyền lực của nhân dân. Người khẳng định vai trò của pháp luật là: “Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”[14]
và có công lớn trong sự nghiệp lập hiến, lập pháp của nước ta. Người thường chỉ
rõ những tiêu cực trong xã hội và nhắc nhở mọi người đề phòng, khắc phục những
tệ nạn trong bộ máy nhà nước như đặc quyền, đặc lợi; tham ô, lãng phí, quan
liêu, chia rẽ, kiêu ngạo... Người yêu cầu tăng cường tính nghiêm minh của pháp
luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đứccách
mạng, đề cao vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, cán bộ chủ chốt
các ngành, các cấp.
3.
Tư tưởng về đại đoàn kết toàn dân
Trong đấu tranh giành chính quyền và bảo vệ nền độc lập,
xây dựng xã hội mới, Hồ Chí Minh luôn khẳng định vai trò quan trọng, quyết định
của nhân dân “cách mạng là việc chung của
dân chúng chứ không phải là việc riêng
của một số người”; kháng chiến là sự nghiệp của dân; có dân là có tất cả.
Người đặc biệt quan tâm
đến xây dựng khối đoàn kết toàn dân: “Sự đồng tâm của
đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc, dù địch hung tàn,
xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”[15]. Đoàn kết toàn
dân mới phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp, đánh giặc trên tất cả các mặt trận
quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, tư tưởng, văn hóa...
Để xây dựng nền quốc phòng toàn dân
phải xây dựng toàn diện vật chất và tinh
thầnvững mạnh, trong đó, chú trọng xây dựng tiềm lực chính trị, tinh
thần của con người, của đoàn kết toàn dân.Người khái quát chân lý“Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”[16]; “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”[17]; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”... Theo
Người, cần đoàn kết rộng rãi với tất cả những người yêu nước, không phân biệt tầng lớp, thành phần dân
tộc, tín ngưỡng, chính kiến.... Đoàn kết phải lâu dài, vì mục
đích chung là tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ.“Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài… Ai có
tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn
kết với họ”[18]. Để đoàn kết toàn dân tộc cần phải
có niềm tin vào nhân dân, đề cao tinh thần dân tộc,
truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung. Đoàn kết toàn dân tộc phải được
quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, phải được thực
hiện thông qua Mặt trận dân tộc thống nhất; đoàn kết trong Đảng là hạt nhân để
đoàn kết mọi người trong toàn xã hội.
4. Tư tưởng về phát triển
kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội phải
phát triển kinh tế. Tục ngữ
có câu“Có thực mới vực được đạo”, vì thế
kinh tế phải đi trước một bước. Phát triển kinh tế là tiền đề, là cơ sở cho sự
phát triển văn hoá, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu. “Muốn có chủ nghĩa xã hội thì không có cách nào khác là phải dốc lực lượng
của mọi người ra để sản xuất. Sản xuất là mặt trận chính của chúng ta”[19].
Nhưng sản xuất cần gắn với phân phối công bằng, hợp lý: “Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng.
Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”[20].
Mục tiêu phát triển kinh tế, theo Hồ Chí Minh là tất cả vì con người, để mọi người dân có ăn, có mặc, có chỗ ở và được học
hành. Muốn thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và yếu hèn, phải phát triển kinh tế đi
đôi với phát triển văn hóa. Phát triển kinh tế, diệt giặc đói, đồng thời phải
diệt giặc dốt, vì “một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu”. Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân. Trong Di chúc, Người dặn, Đảng cần
phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Hồ Chí Minh coi con người là vốn quý nhất, nhân tố
quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng “vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa,
đều thế cả”[21]. Con người là mục tiêu của
cách mạng, mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi
ích chính đáng của con người, “Vì lợi ích
trăm năm phải trồng người”, “Muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội cần có con người xã hội chủ nghĩa”. Theo Người, không phải mọi người đều
trở thành động lực của cách mạng, mà phải là những người được giác ngộ, có trí
tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, biết kế thừa truyền thống lịch sử và văn hóa
của dân tộc; vừa có có tư tưởng, đạo đức cách mạng, có trí tuệ và bản lĩnh để
làm chủ bản thân, gia đình và xã hội; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng. Muốn
thực hiện chiến lược “trồng người”,
cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục-đào tạo là biện pháp quan trọng bậc
nhất. Bởi vì, giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng
cho thanh niên. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến thanh niên. Nội
dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ; phải đặt đạo
đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu.
Theo Người “Trồng người” là công việc
“trăm năm”, không thể nóng vội một
sớm một chiều và bản thân mỗi người đều phải tu dưỡng, rèn luyện suốt đời.
5. Tư tưởng về đạo đức
cách mạng
Hồ Chí Minhcho rằng, đạo đức có vai trò rất quan trọng.
Đạo đức là gốc, là nền tảng của con người, của xã hội giống như gốc của cây,
nguồn của sông suối. Có đạo đức cách mạng mới làm được những việc cao cả, vẻ
vang. Đạo đức cách mạng là vũ khí sắc bén trong cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới, giúp cho con người luôn giữ được nhân cách, bản lĩnh của mình trong
mọi hoàn cảnh. Đạo đức là tiêu chuẩn đánh giá sự tốt đẹp, cao quý của con
người. Đạo đức cùng với tài năng của mỗi người đều quan trọng, nhưng đạo đức
giữ vai trò là cái gốc của người cách mạng. Có đức mà không có tài thì làm việc
gì cũng khó, nhưng có tài mà
không có đức là người vô dụng.
Về chuẩn mực đạo đức cách mạng,
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.Trước hết,phẩm
chất trung với
nước, hiếu với dân. Đây là tiêu chí
nền tảng, quy định hành vi ứng xử của cá nhân với đất nước và cộng đồng. Trung
với nước là yêu nước, độc lập dân tộc với yêu chủ nghĩa xã hội; trung thành với
con đường mà Đảng và nhân dân đã lựa chọn; có trách nhiệm xây dựng, bảo vệ,
phát triển đất nước. Hiếu với dân là phải thương dân, tin dân, lấy dân làm gốc;
quan tâm, chăm lo mọi mặt đời sống nhân dân; đấu tranh để giải phóng nhân dân
để dân trở thành người chủ và làm chủ đất nước.
Thứ hai, yêu thương con người là yêu thương mọi người, trước hết là những người lao động
nghèo khổ, bị bóc lột, áp bức và những người dễ bị tổn thương nhất trong xã
hội. Yêu thương con người là phải quan tâm, chăm sóc mọi mặt đời sống con người
và tạo điều kiện cho con người phát huy hết tài năng, sáng tạo của mình; phải
hành động để bảo vệ lương tri, phẩm giá làm người, để con người phát triển toàn
diện.
Thứ ba, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư: Đây là chuẩn mực đạo đức trung tâm, là những đức tính
cần thiết, là thước đo bản chất của mỗi con người. Hồ Chí Minh giải thích: Cần
là cần cù, siêng năng, chăm
chỉ, dẻo dai; biết sắp xếp, phân công lao động hợp lý; lao động với năng suất
cao, chất lượng tốt, hiệu quả cao. Kiệm, là tiết kiệm, không lãng phí, không xa xỉ; tiết kiệm của mình và
tiết kiệm của công; mình tiết kiệm và làm cho người khác tiết kiệm; tiết kiệm
toàn diện từ tài nguyên, vật liệu, tiền tài của cải, thời gian đến sức lao
động. Liêm, là liêm
khiết, trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng. Chính, là không tà, thẳng thắn, đứng đắn,
trung thực, thật thà. Chí công vô tư, là đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết;
hy sinh lợi ích riêng vì lợi ích chung.
Thứ tư, có tinh
thần quốc tế trong sáng, là biết tôn trọng, ủng hộ, quyền bình đẳng dân tộc, chống áp
bức, bất công, chống sự thù hằn, phân biệt chủng tộc, đoàn kết quốc tế.
- Về con đường rèn luyện đạo đức, theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng không phải là thứ có sẵn, không phải trên trời sa xuống, mà do tu dưỡng, rèn luyện
mà nên, cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Vì vậy,
cần quán triệt các nguyên tắc cơ bản xây dựng đạo đức cách mạng: Thứ nhất, nói đi đôi với làm, phải nêu
gương về đạo đức trước mọi người. Mỗi người phải gương mẫu “miệng
nói tay làm”; “Mình vì mọi người, mọi
người vì mình”; cán bộ, đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Thứ hai, xây
dựng đạo đức cách mạng phải gắn liền với đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân,
nguồn gốc của mọi thứ tệ nạn vì chủ nghĩa cá nhân là thứ giặc “nội xâm”, là
đồng minh của kẻ thù, khó thấy, khó biết, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chế
độ. Thứ ba, phải tu dưỡng đạo đức thường xuyên, liên tục, suốt đời vì
đây là quá trình rất gian khổ, phải kiên trì, tự giác, tự nguyện, đề cao tinh
thần tự phê bình và phê bình. Muốn rèn luyện đạo đức phải lấy phấn đấu tự mình
làm mực thước; nêu tấm gương tốt để giáo dục lẫn nhau; gắn với việc rèn luyện
đạo đức với thực tiễn công tác của mình.
6. Tư tưởng về chăm lo
bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
Hồ Chí Minh khẳng định “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải
trồng người”1. Người coi trọng và đánh
giá cao vai trò của tuổi trẻ “Tuổi trẻ là
mùa xuân của nhân loại”; thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà,
nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên. Đảng, Nhà
nước, các tổ chức chính trị-xã hội, các thế hệ đi trước phải hiểu sâu sắc về
vai trò quan trọng của giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ thành người vừa “hồng” vừa “chuyên”. Trong Di chúc, Người dặn, “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
Hồ Chí
Minh yêu cầuphải chú trọnggiáo dục và học tập đủ các mặt đạo đức cách mạng, văn
hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất. Dạy cũng như học phải biết chú
trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo
đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan trọng. Giáo dục thế hệ trẻ trên tất cả các
mặt “đức, trí, thể, mỹ” gồm giáo dục lý tưởng cách mạng phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân, học để làm cho dân giàu, nước mạnh. Giáo dục ý chí, đạo
đức cách mạng, trình độ chính trị, học vấn, khoa học, kỹ thuật và quân sự; nếp
sống văn hóa, thể chất cho tuổi trẻ.
Theo Hồ Chí Minh, phương
pháp giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ phải phù hợp với đối
tượng, giáo dục là một khoa học.
Đại học thì cần kết hợp
lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến
của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho
công cuộc xây dựng nước nhà.
Trung học thì cần đảm bảo
cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu
cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời
sống thực tế.
Tiểu học thì cần giáo dục
cho các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học,
trọng của công. Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào
khuôn khổ của người lớn, phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe của các cháu.
Giáo dục nhi đồng là một khoa học, cách dạy trẻ phải
giữ toàn vẹn cái tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của chúng,
chớ nên làm cho chúng hóa ra những người già sớm.
Với thanh niên thì phải chuyên tâm học hành và công
tác, nhưng cũng cần có vui chơi. Vui chơi lành mạnh là một bộ phận trong sinh
hoạt của thanh niên. Trong vui chơi cũng cần có giáo dục.
Theo Hồ
Chí Minh, giáo dục phải theo hoàn cảnh, điều kiện; phải ra sức làm việc nhưng
không được vội vàng; phải có kế hoạch từng bước. Giáo dục phải gắn liền với xã
hội, học đi đôi với hành. Giáo dục phải phục vụ đường lối chính trị của Đảng và
Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân. Giáo dục phải phối
hợp nhà trường - xã hội - gia đình. Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần,
còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội, trong gia đình để giúp cho việc giáo dục
trong nhà trường được tốt hơn. Trường học, gia đình và đoàn thể thanh niên cần
phải phải liên hệ chặt chẽ trong việc giáo dục tư tưởng, thái độ, hoạt động và
sinh hoạt hàng ngày của thanh niên.
Theo Hồ
Chí Minh, cần thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục. Dân chủ nhưng trò
phải kính thầy, thầy phải quý trò. Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần
phải phát huy đầy đủ dân chủ xã
hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa
thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp,
giữa nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ cách mạng
Giáo dục phải gắn liền với thi đua. Hồ Chí
Minh khuyên các nhà trường cũng nên phát động một phong trào thi đua “Hai tốt”, tức là dạy thật tốt, học thật tốt. Giáo
dục thế hệ trẻ phải thực hiện phương pháp nêu gương. Trong nhà trường, thầy nêu
gương cho trò. Tri thức dạy phải dễ hiểu, dễ nhớ, học mau. Thầy cô giáo phải
làm kiểu mẫu cho các em. Thầy cô giáo phải thật sự yêu nghề; phải có đạo đức
cách mạng; có chí khí cao thượng, yên tâm công tác, thật thà đoàn kết; luôn
luôn ra sức thi đua công tác và học tập, thật thà phê bình và tự phê bình để
cùng nhau tiến bộ.
III. VAI TRÒ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM
- Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng
ta. Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát
triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta. Từ Hội nghị thành lập Đảng tháng 2-1930, Đảng
ta đã thông qua Chính cương vắn tắt,
theo tư tưởng Hồ Chí Minh và từ đó Đảng
lãnh đạo nhân dân đấu tranh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác
Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII
của Đảng ( 6-1991) đã khẳng định tư
tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng và
của của sự nghiêp cách mạng của nhân dân ta.
Tư tưởng Hồ
Chí Minh là hệ thống các quan điểm cơ bản, sâu sắc và toàn diện của cách mạng
Việt Nam, bao gồm các quan điểm về đấu tranh giành chính quyền, tiến hành chiến
tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc, xây dựng xã hội mới, xây dựng Đảng... Tư
tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn, bao gồm một hệ
thống những quan điểm lý luận, tư tưởng về chiến lược, sách lược cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta., về đạo đức, phong
cách, phương pháp Hồ Chí Minh, về việc hiện thực hóa các tư tưởng ấy trong đời
sống xã hội... Tư tưởng Hồ
Chí Minh đã thấm sâu vào quần chúng nhân dân, phù hợp với thực tiễn cách mạng
Việt Nam, ngày càng toả sáng, chiếm lĩnh trái tim khối óc của hàng triệu người
dân đất Việt.
Với vai trò là nền tảng tư
tưởng, tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận để xác định mục tiêu, phương
hướng, giải pháp trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
Tư tưởng
Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn và quý giá của Đảng, dân tộc Việt Nam. Vai
trò của tư tưởng Hồ Chí Minh là ở chỗ không chỉ kế thừa những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác-Lênin, mà còn trong quá trình nghiên cứu, vận dụng những nguyên lý
đó, Hồ Chí Minh đã loại bỏ những gì không phù hợp với điều kiện cụ thể của nước
ta, đề xuất những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra và giải quyết một cách linh
hoạt, khoa học, hiệu quả.
-Tư tưởng
Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị đối với cách mạng Việt Nam mà còn phản ánh
khát vọng thời đại là giải phóng dân
tộc thuộc địa, là hòa bình, hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc. Tư tưởng
và cuộc đời hoạt động cách mạng phong phú của Người là tấm gương sáng cổ vũ các
dân tộc trên thế giới tham gia cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, hòa bình và
tiến bộ xã hội.
IV. HỌC TẬP
VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Sự cần thiết phải học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
a) Nội dung cơ bản củatấm gương đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh
- Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về thực hành đạo
đức, thống nhất tư tưởng đạo đức và hành vi đạo đức, nói đi đôi với làm, cụ thể
ở các nội dung sau:
Suốt đời trung với nước, hiếu với dân là nguyên
tắc hoạt động, là tình cảm trong suốt cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh. Người
là tấm gương dành trọn cả đời phấn đấu hy sinh để thực hiện một ham muốn, ham
muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Tinh thần lạc quan cách mạng,
tin tưởng vào sức mạnh của con người, vào chính nghĩa đã giúp cho Người có ý
chí, nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử thách, khó khăn, thử thách để
đạt được mục đích. Người từng làm nhiều nghề nghiệp khác nhau để kiếm sống và
nghiên cứu, tìm hiểu về cách mạng các nước. Trong hoạt động cách mạng, Người đã
hai lần bị vào tù, thậm chí bị án tử hình, gặp nhiều nguy hiểm, khó khăn nhưng
Người vẫn kiên trì “đeo đuổi một mục
đích, làm cho ích quốc lợi dân”.
Hồ
Chí Minh là tấm gương mẫu mực hết lòng thương yêu, quý trọng, phục vụ nhân dân. Đối với Người, từ việc nhỏ đến lớn đều
vì nhân dân; ở bất kỳ cương vị nào cũng vì nhân dân mà phục vụ. Theo Người, “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm,
việc gì có hại cho dân, phải hết sức tránh”. Người luôn tìm cách chăm lo nâng cao dân
sinh, dân trí; không ngừng thực hành dân chủ. Người nói nếu để dân đói, dân
rét, dân không được học hành... thì Đảng và Chính phủ đều có lỗi với dân.
Hồ Chí Minh là người có tấm lòng nhân ái, vị tha,
khoan dung, nhân hậu, luôn hết mình đấu tranh vì độc lập, tự do, vì giải phóng
con người. Trong Di chúc, Người viết:
“Đầu tiên là công việc đối với con người”.
Người thương đoàn dân công đêm ngủ ngoài rừng, trải lá cây làm chiếu, manh áo
mỏng làm chăn, thương các cụ già, thương đàn em nhỏ còn đói rách. Người cảm
thấy rất đau khổ khi nhìn thấy những thanh niên Mỹ chết một cách vô ích ở Việt
Nam. Ngay đối với kẻ thù xâm lược, dù đã gây bao tội ác, nhưng khi chúng bị
bắt, hoặc quy hàng Người vẫn căn dặn cán bộ, chiến sĩ ta phải đối xử khoan
hồng, phải làm cho thế giới thấy rằng dân tộc Việt Nam tiến bộ, văn minh hơn
bọn đi giết người, cướp nước.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng
trong sáng, nếp sống giản dị và hết sức khiêm tốn là tấm gương mẫu mực của Hồ
Chí Minh. Người là tấm gương điển hình về thực hành tiết kiệm trong ăn, mặc, ở,
đi lại và các vật dụng sinh hoạt hàng ngày... Tiết kiệm đã trở thành thói quen,
nếp sống, sinh hoạt đời thường của Người. Hồ Chí Minh là người đứng đầu Đảng,
Nhà nước, Nhưng Người luôn giữ mình liêm khiết, trong sạch, trung thực, chân
thành, hòa đồng với mọi người. Người luôn khuyến khích, động viên để hướng con
người tới cái tốt đẹp, mới mẻ. Người là một tấm gương đấu tranh chống lại cái
ác, cái xấu, cái tiêu cực, nhất là chủ nghĩa cá nhân, thói tham ô, lãng phí,
quan liêu. Người luôn giáo dục, cảnh tỉnh cán bộ, đảng viên không được lên mặt “quan
cách mạng”, luôn phòng tránh những sai lầm, cám dỗ đời thường, không ngã gục
trước đồng tiền. Người đã trực tiếp chỉ đạo xét xử những vụ án lớn, phân tích
thấu tình đạt lý những nguyên nhân dẫn đến lỗi lầm của cán bộ, đảng viên, củng
cố niềm tin của nhân dân vào cán cân công lý “phụng công, thủ pháp, chí công vô
tư” của luật pháp và bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
-
Phong
cách Hồ Chí Minh
Phong cách Hồ Chí Minh là sự thể hiện bản chất,
trí tuệ, đạo đức, tài năng của Người trong ứng xử với công việc và với mọi
người.
Phong cách tư duy của Hồ Chí Minh là phong cách tư duy khoa học,
cách mạng, độc lập, tự chủ và sáng tạo. Người thường xuất phát từ thực tiễn,
khái quát kinh nghiệm, thành lý luận và tác động trở lại cải biến thực tiễn.
Người có tầm nhìn xa, trông rộng, tìm ra cái bản chất, tính quy luật nên có
nhiều dự báo thiên tài. Người luôn xuất phát từ cái chung cả nhân loại, từ chân
lý phổ biến, những “lẽ phải không ai chối
cãi được” để nhận thức và lý giải những vấn đề của thực tiễn đất nước.
Người có phong cách tư duy đổi mới, sáng tạo, không chấp nhận lối mòn của tư
duy cũ. Người ví tư tưởng bảo thủ như là sợi dây cột chân, cột tay người ta...,
muốn tiến bộ phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm.
Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh rất khoa học, có kế hoạch
và hiệu quả. Người làm việc gì cũng có điều tra, nghiên cứu, thu thập thông
tin, số liệu, để nắm chắc thực chất tình hình. Trong việc đặt kế hoạch, Người
thường nói “không nên tham lam, phải
thiết thực, vừa sức, từ thấp đến cao”, “chớ
làm kế hoạch đẹp mắt, to tát… nhưng không thực hiện được”. Hồ Chí Minh là
mẫu mực của phong cách làm việc chính xác, đúng giờ. Trong các cuộc họp, Người
thường không để ai phải đợi mình mà chủ động đến trước.
Phong
cách lãnh đạocủa Hồ Chí Minh thể
hiện ở Người
sự tuân thủ nghiêm nguyên tắc tập
trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; đi đúng đường lối quần
chúng; lãnh
đạo bằng nêu gương. Người luôn
lắng nghe ý kiến của mọi người và thường nói, lãnh đạo phải biết động viên,
khuyến khích khiến cho mọi người cả
gan nói ra, cả gan đề ra ý kiến. Phải làm cho cấp dưới không sợ nói sự thật và
cấp trên không sợ nghe sự thật. Theo Người, sau khi nghị quyết đã được
ban hành, phải tổ chức tốt để nó đi vào cuộc sống; phải kiểm tra, kiểm soát cụ
thể, thường xuyên, “phải đi tận nơi, xem
tận chỗ”. Người thường xuyên đi thăm các địa phương, công trường, xí
nghiệp, hợp tác xã, đơn vị bộ đội… để xem xét tình hình, kiểm tra công việc. Người luôn giữ
phong cách nêu gương và đòi hỏi, mỗi cán bộ, đảng viên phải làm kiểu mẫu trong
công tác và lối sống, trong mọi lúc, mọi nơi, nói phải đi đôi với làm để quần
chúng noi theo.
Phong
cách diễn đạt của Hồ Chí Minh thể hiện qua cách nói, cách viết giản dị,
cụ thể, thiết thực; diễn đạt ngắn gọn, cô đọng, hàm súc, trong sáng và sinh
động, có lượng thông tin cao. Phong cách viết của Người thường ngắn gọn. Ví dụ
chỉ với 9 chữ “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, Người đã khái quát
được giai đoạn đầy biến động của đất nước từ tháng 3 đến tháng 8 năm 1945. Hồ
Chí Minh đúc kết ngắn gọn, diễn đạt như câu châm ngôn như “Nước lấy dân làm gốc”,
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”... Người thường chọn cách nói, cách viết
sinh động, gần gũi với quần chúng, có hình ảnh ví von, so sánh như dùng “con
đỉa hai vòi” để nói về bản chất của chủ nghĩa đế quốc.. Người thường nhấn mạnh
khi nói, khi viết phải hiểu rõ nói và
viết cho ai? nói và viết để làm gì? Nói và viết như thế nào? Cần nói và viết
được cái tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng.
Phong cách ứng xử Hồ Chí
Minh được thể hiện nhất quán trong các mối quan hệ với tự mình, với công
việc và với mọi người. Người thể hiện rõ đức tính khiêm tốn, không bao giờ đặt mình
cao hơn người khác, mà trái lại, luôn hòa nhã, lịch thiệp, quan tâm đến những người xung quanh.
Phong cách ứng xử tự nhiên, chân tình, nồng hậu, linh hoạt, chủ động, biến hoá;
vui vẻ hoà nhã với mọi người, ứng xử uyển chuyển, có lý có tình. Người đã xoá
nhoà mọi khoảng cách lãnh tụ và nhân dân. Mỗi khi Bác Hồ xuất hiện ở đâu là ở
đó rộn rã lên niềm vui, có sự phấn khởi và hòa đồng của tất cả mọi người.
Phong
cách sinh hoạt đời thường của Hồ Chí Minh rất giản dị. Người
thích lối ăn uống đạm bạc, điều độ, bình dân, mang tính truyền thống dân tộc. Mỗi khi ăn xong, Người thường tự sắp xếp lại mâm,
bát cho gọn, thể hiện sự tôn trọng với người phục vụ. Có “của ngon, vật lạ”, Người thường chia sẻ với những người cùng đi, để phần cho người đi vắng…
Quần áo và cách mặccủa Hồ Chí
Minh rất bình dị. Người thường dùng bộ quần áo bằng kaki, bằng lụa, đôi dép cao
su, cái quạt lá cọ. Cổ áo và tay áo đã sờn, đôi tất chân hở ngón cái, Người vẫn
không chịu cho thay cái mới... Người muốn chỗ ở gần gũi với thiên nhiên, “trên
có núi, dưới có sông; có đất ta trồng, có bãi ta chơi; nhà thoáng ráo, kín mái;
gần dân, không gần đường”. Trong sinh hoạt đời thường, việc gì có thể làm,
Người đều tự làm lấy, không muốn phiền người khác. Mỗi khi đi công tác đến cơ
sở, Người ít khi báo trước, hoặc yêu cầu địa phương không được tổ chức đón tiếp
linh đình; cán bộ đi theo phải chuẩn bị mọi thứ đi theo để ăn nếu làm việc quá
giờ. Những người được sống bên Bác cho biết chưa bao giờ thấy Người nổi nóng
hay phàn nàn về thời tiết; luôn bình thản, vui vẻ, điềm đạm trong cuộc sống và
công việc. Người luôn giữ vững, yêu quý và tự hào về truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân
tộc Việt Nam.
b) Sự cần thiết phải học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh là sự kết tinh của những giá trị quý báu của truyền thống của dân tộc, tinh hoa văn hóa thế giới. Năm 1987, Đại hội đồng UNESCO đã thông qua Nghị quyết
24C/18.65 về Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1990 với
tư cách là “Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”.
Học tập, vận dụng, làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh là xuất phát từ tư tưởng
của Người là hệ thống quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, nền tảng tư tưởng lý luận mang tính khoa học
và cách mạng để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đây
cũng là yêu cầu trong nhiều chỉ thị của Đảng Cộng sản Việt Nam[22].
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh
việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nhằm tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong Đảng, hệ thống chính trị và
toàn thể nhân dân. Đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh thành công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng,
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp,
của từng địa phương, cơ quan, đơn vị và các tầng lớp nhân dân, trước hết là của
người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội
viên.
Tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với đạo đức, phong cách của Người. Hồ Chí
Minh có tư tưởng rất sâu sắc về đạo đức, đồng thời là một tấm gương mẫu mực
trong thực hành đạo đức, thể hiện trong tất cả các mối quan hệ đối với tự mình,
với mọi người, với với công việc. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh là một việc làm cần thiết để góp phần “nhân thêm cái đẹp, dẹp bớt cái xấu”, hình thành nên nền đạo đức mới, hạn chế những
tác động tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường đối với đời sống xã hội hiện
nay.
Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng đội ngũ cán bộ,; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng
phí, quan liêu.
Tiếp tục làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
nhận thức ngày càng sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách
của Người thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội,
xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
2. Nội dung chủ yếu của học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh
a) Nắm vững nội dung cơ bản, hệ thống tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh
Đó là nắm vững hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
của Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của
sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là nắm vững nội dung cơ bản tư tưởng Hồ
Chí Minh như đã nêu ở phần trên.
Nắm nội dung cốt lõi về tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh: Trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân;
thương yêu nhân dân, thương yêu con người, Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư và có tinh thần quốc tế trong sáng.
Học tập phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, luôn gắn
chặt lý luận với thực tiễn; phong cách làm việc dân chủ, khoa học, kỹ lưỡng, cụ
thể, tới nơi, tới chốn; phong cách ứng xử văn hoá, tinh tế, đầy tính nhân văn,
thấm đậm tinh thần yêu dân, trọng dân, vì dân; phong cách nói đi đôi với làm,
đi vào lòng người; nói và viết ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm; phong cách
sống thanh cao, trong sạch, giản dị; phong cách quần chúng, dân chủ, tự mình
nêu gương,...v.v.
Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cớ sự
thống nhất với nhau cả trong tư tưởng và
hành động. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh đã được làm rõ trong các phần trên. Đề
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, cần quán triệt
các nội dung cơ bản của đạo đức, phongcách vủa Người.
b) Tổ chức học tập, làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào
chương trình, kế hoạch hành động thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật nhà
nước và nội dung sinh hoạt thường xuyên của các tổ chức, gắn với các cuộc vận
động, các phong trào thi đua yêu nước, với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và
giải quyết các vấn đề bức xúc, nổi cộm ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị.
Gắn đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh với việc xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt
Nam, xây dựng hệ giá trị văn hoá và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Lấy kết quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
là một trong những tiêu chuẩn đánh giá, bình xét, phân loại cán bộ, đảng viên,
tổ chức đảng và mỗi người hằng năm.
Xây dựng, tổng kết và nhân rộng những điển hình tiên tiến về học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, kết hợp giữa “xây” với “chống”. Đề
cao trách nhiệm nêu gương, tự giác học trước, làm theo trước của cán bộ, đảng
viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công
vụ ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị với phương châm sát chức năng, nhiệm vụ,
ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thực hiện và tổ chức đánh giá việc thực hiện. Hoàn thiện
chính sách, pháp luật liên quan đến đạo đức công vụ.
Tiếp tục chỉ đạo biên soạn chương trình, giáo trình về tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh để giảng dạy trong hệ thống giáo dục quốc dân, bảo đảm
phù hợp với từng cấp học, bậc học và với yêu cầu giáo dục, đào tạo.
Đối với học sinh cần phấn đấu học tập và rèn luyện theo tư tưởng, tấm gương
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; bồi dưỡng tư tưởng,
phẩm chất chính trị; không ngừng phát huy tinh thần yêu nước, tự hào về truyền
thống bất khuất của dân tộc; trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc; bảo vệ Đảng, chế độ; bảo vệ nhân dân; bảo vệ nền độc lập, chủ
quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết; phải
tôn trọng pháp luật; có ý thức tổ chức và kỷ luật trong học tập, lao động và
cuộc sống.
Không ngừng rèn luyện đức tính hiếu với dân, tận tụy với công việc; thật
thà, chính trực, cần, kiệm, liêm, chính, biết quý trọng lao động, quý trọng
thời gian và tài sản của tập thể, của mọi người, chống lãng phí, xa hoa; có
trách nhiệm đối với học tập, công việc và cuộc sống; có tính tự giác tu dưỡng
rèn luyện đạo đức.
Rèn luyện phong cách, lối sống khiêm tốn, giản dị; chống kiêu căng, tự mãn;
kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do, lười biếng; thói hám danh,
hám lợi… Tích cực tham gia những hoạt động có ý nghĩa cho bản thân và có ích
cho cộng đồng, xã hội. Cần biết kết hợp học lý thuyết với thực hành, học tập,
lao động với tinh thần sáng tạo, có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất cao.
Không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và quân
sự; biết học tập và nhân rộng điển hình tiên tiến của cộng đồng trong học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
CÂU HỎI
1. Trình bày nội dung cơ bản của
tư tưởng Hồ Chí Minh?
2. Hãy nêu nội dung cơ bản tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh?
[1]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr. 88
[2]ĐCS Mỹ thành lập năm1919, ĐCS
Tây Ban Nha, ĐCS Anh, ĐCS Inđônêxia, ĐCS Pháp thành lập năm 1920, ĐCS Italia,
Tiệp Khắc, Trung Quốc, Nam Phi thành lập 1921, ĐCS Chilê, Braxin, Nhật Bản
thành lập năm 1922.
1Hồ Chí Minh Toàn tập.t.12. Nxb. CTQG, HN, 2011, tr.562
2 Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, t.12, tr.30
[3] Đảng CSVN:
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb. CTQG, HN. 2001, tr.83,84
[4] Hồ Chí Minh Toàn tập.t.4. Nxb. CTQG, HN, 2011, tr.1
[5]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.3
[6]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.534
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.11,
tr.216
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t.15.tr,
681
[9]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr.
453
[10]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.9, tr. 258.
[11]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.9, tr.382.
[12]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.7, tr. 434.
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr.
492
[14]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.
473
[15] Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Sđd, t.5, tr.179
[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.14.tr.27
[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.14.tr.186
[18]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,t.9, tr.244.
[19]Hồ Chí
Minh:Toàn tập, Sđd, t.13, tr. 68
[20]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr. 404
[21]. Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Sđd, t.5, tr. 281.
1Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr. 528
[22]Chỉ thị 23-CT/TW ngày 27-03-2003 của Ban Bí thư Trung ương, khóa IX, Chỉ
thị số 06-CT/TW (11-2006) của Bộ Chính trị, khóa X, Chỉ thị số 03-CT/TW
(5-2011) của Bộ Chính trị, khóa XI, Chỉ thị số 05-CT/TW (5-2016) của Bộ Chính
trị, khóa XII.
Đăng nhận xét